So sánh kết quả hóa xạ trị tiền phẫu bằng kỹ thuật 3D-CRT và IMRT trong ung thư trực tràng giai đoạn T3-T4/N0

 0 Người đánh giá. Xếp hạng trung bình 0

Tác giả: Văn Huy Nguyễn, Thắng Trần

Ngôn ngữ: vie

Ký hiệu phân loại: 616.994 +Cancers

Thông tin xuất bản: Tạp chí Y học Việt Nam (Tổng hội Y học Việt Nam), 2023

Mô tả vật lý: 281-284

Bộ sưu tập: Metadata

ID: 440253

 So sánh kết quả hóa xạ trị tiền phẫu bằng kỹ thuật 3D-CRT và IMRT trong ung thư trực tràng giai đoạn T3-T4/N0. Bệnh nhân và phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu thuần tập hồi cứu. Từ tháng 6/2017 đến tháng 6/2020 có 85 bệnh nhân được chẩn đoán ung thư trực tràng trung bình hoặc thấp giai đoạn T3-T4/N0 được hóa xạ trị tiền phẫu 45-50,4Gy kết hợp với capecitabine uống vào các ngày xạ trị tại bệnh viện K. Bệnh nhân được đánh giá đáp ứng theo "Tiêu chuẩn Đánh giá Đáp ứng cho U đặc" (RCIST), độc tính theo tiêu chuẩn phân độ độc tính thuốc chống ung thư của Tổ chức Y tế thế giới (World health organization common toxicity criteria). Kết quả Tỷ lệ đáp ứng toàn bộ của nhóm được điều trị kỹ thuật 3D-CRT là 84,7%
  với nhóm IMRT là 95% sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p =0.652. 93,8% bệnh nhân sau điều trị HXT được phẫu thuật triệt căn ở nhóm 3D-CRT, tương ứng với nhóm IMRT là 95% sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p=0.333 Các tác dụng phụ xạ trị trên bệnh nhân đều có xu hướng thấp hơn khi điều trị bằng kỹ thuật xạ IMRT. Kết luận Kỹ thuật xạ trị IMRT được ứng dụng trong hóa xạ trị tiền phẫu ung thư trực tràng giai đoạn T3-4/N0 là một kỹ thuật xạ hiệu quả, an toàn, có xu hướng giảm độc tính hơn so với phương pháp 3D-CRT dù chưa có ý nghĩa thống kê.
Tạo bộ sưu tập với mã QR

THƯ VIỆN - TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP.HCM

ĐT: (028) 71010608 | Email: tt.thuvien@hutech.edu.vn

Copyright @2024 THƯ VIỆN HUTECH