Ung thư vú là bệnh lý ung thư phổ biến nhất trong các loại ung thư ở phụ nữ. Theo Globocan 2020, ung thư vú chiếm tỷ lệ cao nhất 24,5% trong các loại ung thư ở phụ nữ trên toàn thế giới và chiếm 25,8% tại Việt Nam. Mặc dù ngày càng có càng nhiều phương pháp mới trong điều trị, nhưng tỷ lệ ung thư vú tiến triển và tái phát vẫn còn cao, lên đến 15-21% [7]. Vì vậy, việc tiên lượng trong chẩn đoán và điều trị ung thư vú đóng một vai trò rất quan trọng và một trong những phương pháp tiên lượng hữu ích là thang điểm Nottingham, được dùng ở những bệnh nhân ung vú giai đoạn chưa di căn xa. Bên cạnh đó, phân loại typ phân tử trong ung thư vú cũng đóng góp vai trò trong tiên lượng đáp ứng điều trị.Nghiên cứu hồi cứu, mô tả lâm sàng, tương quan 455 đối tượng tại Trung tâm ung bướu - Bệnh viện Trung ương Huế trong thời gian từ 01/2018 đến ngày 01/2022. Điều kiện chọn mẫu là những đối tượng được chẩn đoán xác định ung thư vú bằng môbệnh học ở giai đoạn không di căn xa. Dữ liệu được thu nhập bằng bảng câu hỏi, tham khảo thông tin hồ sơ bệnh án. Nhập số liệu và phân tích thống kê thực hiện trên phần mềm SPSS 16.0 và Excel 2016.Trong nghiên cứu của chúng tôi, độ tuổi trung bình tại thời điểm chẩn đoán là 51,34 ± 0,57, giai đoạn bệnh ban phần lớn là giai đoạn sớm (>
90%).Ttỷ lệ ER (+) chiếm 45,3%, PR (+) 48,4%, Her-2 (+) 42,6%, tỷ lệ Ki67 cao 23,7% và với phân nhóm NPI cao (>
3,4 - 5,4) chiếm tỷ lệ hơn 60%. Các yếu tố như ER (+), PR (+) và Ki67 <
15% làm giảm chỉ số NPI ≤ 5,4, với p <
0,05 ở PR (+) và Ki67 <
15%. Nhóm phân tử HR (+)/Her-2 (-) làm giảm chỉ số NPI ≤ 5,4 với p = 0,036, trong khi đó, nhóm bộ ba âm tính làm tăng chỉ số NPI >
5,4 với p <
0,05.Các yếu tố ER (+), PR (+), Ki67 (+) thấp và phân nhóm HR (+)/Her-2 (-) là yếu tố tiên lượng tốt trong ung thư vú, chỉ số NPI ≤ 5,4. Phân nhóm bộ ba âm tính là yếu tố tiên lượng xấu với NPI >
5,4.