Hiện nay, cả nước có 13.511 cơ sở y tế, trong đó có đến 12.311 cơ sở y tế gồm trạm y tế xã, phường, phòng khám đa khoa khu vực, các cơ sở y tế dự phòng, v.v. Tuy nhiên, số lượng nghiên cứu, đánh giá về công tác quản lý, xử lý chất thải y tế nói chung và nước thải y tế nói riêng tại các trạm y tế và phòng khám đa khoa khu vực còn hạn chế (CSYT). Nhiệm vụ thực hiện tại 80 trạm y tế xã, phường và phòng khám đa khoa khu vực của Vĩnh Phúc, Hải Dương, Thái Bình và Quảng Ninh. Tất cả các CSYT được khảo sát đều có hệ thống thu gom để thu gom nước thải phát sinh về bể tự hoại trước khi thải ra môi trường. Các hệ thống thu gom được khảo sát đều không có bản vẽ hoàn công. Trừ Quảng Ninh đầu tư cho tất cả các trạm y tế hệ thống xử lý nước thải công nghệ AAO, 59 CSYT tại 3 tỉnh Vĩnh Phúc, Hải Dương và Thái Bình chỉ có 5,1% CSYT có hệ thống xử lý nước thải. Nước thải phát sinh từ các CSYT chủ yếu không đạt về BOD5 (36,3%)
COD (28,8%) và Coliforms (66,3%), nhưng chất lượng nước thải phát sinh từ các cơ sở y tế chưa được định kỳ kiểm tra, giám sát theo quy định.