Để mô tả kinh nghiệm lập kế hoạch xạ trị của chúng tôi đối với bệnh nhân ung thư di căn não đa ổ, có chỉ định xạ trị giảm nhẹ, dự phòng toàn não (WBRT) bảo tồn hồi hải mã. Đối tượng nghiên cứu: Là những bệnh nhân ung thư di căn não đa ổ được chỉ định xạ giảm nhẹ, sử dụng mặt nạ nhiệt cố định vùng đầu cổ với tư thế nằm ngửa, hai tay xuôi theo thân người. Phương pháp nghiên cứu: Dựa trên 20 trường hợp di căn não có chỉ định xạ toàn não WBRT. Mỗi bệnh nhân sẽ được lập 02 kế hoạch với các kỹ thuật khác nhau: 3DCRT, VMAT trên hệ thống lập kế hoạch Monaco v5.11.03. Đánh giá kế hoạch, so sánh phân bố liều lượng PTV, chỉ số đồng dạng CI, chỉ số đồng nhất HI, liều tới cơ quan nguy cấp. Kết quả: Từ tháng 5 năm 2020 đến tháng 6 năm 2022, có 20 bệnh nhân đã được lập kế hoạch theo kỹ thuật 3DCRT và VMAT, kết quả nghiên cứu đã chứng minh rằng liều lượng bức xạ đến vùng hồi hải mã giảm đáng kể khi sử dụng VMAT so với 3DCRT. Các kế hoạch kỹ thuật VMAT có D100% trung bình là 7,35Gy giảm đáng kể so với kế hoạch kỹ thuật 3DCRT(30,05Gy). Các kế hoạch VMAT có Dmax trung bình ở hồi hải mã là 17,2Gy tương ứng 30,7 Gy đối với kỹ thuật 3DCRT. Kết quả liều trung bình Dmean đối với hồi hải mã là 9,75Gy khi sử dụng VMAT thấp hơn đáng kể so với con số 30.4Gy đối với kỹ thuật 3DCRT. Các tổ chức nguy cấp (OARs) ngoài hồi hải hã, cả 2 kỹ thuật cho thấy không có sự khác biệt nhiều. Kết luận: VMAT cho di căn não đã được chứng minh giảm liều đáng kể đối với vùng hồi hải mã so với kỹ thuật truyền thống 3DCRT, từ đó giảm biến chứng thần kinh cho bệnh nhân, giúp cải thiện chất lượng sống cho bệnh nhân sau điều trị.