Nghiên cứu mối liên quan giữa một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng với tổn thương ống thận mô kẽ ở bệnh nhân (BN) bệnh thận IgA. Đối tượng, phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang mô tả được tiến hành trên BN tuổi đủ 18 trở lên được chẩn đoán bệnh thận IgA, tại Khoa Thận - Lọc máu, Bệnh Viện Thống Nhất từ tháng 7/2014 đến tháng 7/2022. Những BN có chẩn đoán bệnh thận IgA do nguyên nhân thứ phát hoặc mẫu mô không đạt yêu cầu để chẩn đoán giải phẫu bệnh bị loại khỏi nghiên cứu. Thống kê các đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng ởBN có tổn thương ống thận mô kẽ so với nhóm BN không có tổn thương thận mô kẽ. Kết quả: Có 43 BN được chọn vào nghiên cứu. Tuổi trung bình BN bệnh thận IgA là 34 (27-44) tuổi, BN nam là 23(53,3%). Hội chứng thận hư và tăng huyết áp lần lượt chiếm 23,3% và 58,1%. Độ lọc cầu thận (ĐLCT) tại thời điểm chẩn đoán là 70,5±38,4 (mL/phút), tiểu máu 74%, hemoglobin 12,2±2,2 (g/dL). Tỷ lệ bệnh nhân bệnh thận IgA có tổn thương ống thận mô kẽ theo phân loại Oxford T0, T1, T2 lần lượt là 55,8%, 39,5% và 4,7%. Bệnh nhân bệnh thận IgA có tổn thương ống thận mô kẽ có tỷ lệ tăng huyết áp, hội chứng thận hư và protein niệu 24h cao hơn so với nhóm không có tổn thương ống thận mô kẽ. Bệnh nhân bệnh thận IgA có tổn thương ống thận mô kẽ có ĐLCT thấp hơn so với nhóm không có tổn thương ống thận mô kẽ (p <
0,05). Kết luận: Tỷ lệ bệnh nhân bệnh thận IgA có tổn thương ống thận kẽ chiếm 45,2%. Cần kiểm soát tốt bệnh tăng huyết áp, đạm niệu và độ lọc cầu thận ở BN có tổn thương ống thận mô kẽ nhằm hạn chế diễn tiến nặng hơn của tổn thương.