Đánh giá ảnh hưởng của các mức phân đạm bón và mặt độ trồng khác nhau đến năng suất, chất lượng của giống ngô nếp tím lai VNUA141. Thí nghiệm được bố trí ô lớn - ô nhỏ với ba lần nhắc lại trong vụ đông 2019 và vụ xuân 2020 tại Gia Lâm, Hà Nội. Kết quả cho thấy, ở cả hai vụ thí nghiệm, thời gian thu bắp tươi của giống VNUA141 ngắn hơn từ 2-3 ngày khi trồng với mật độ thưa (M1: 48.000
M2: 51.000 cây/ha) so với mật độ dày (M3: 57.000
M4: 62.000 cây/ha). Tăng mật độ trồng làm tâng đáng kể chỉ số diện tích lá (LAI) của giống VNUA141 trong vụ đòng 2019 nhưng không có sự sai khác lớn trong vụ xuân 2020. Chì sô' thu hoạch (HI) tăng khi tăng lượng phản đạm bón tư P1 lèn P3 sau đó giảm ở mức P4. Tăng lượng phân đạm bón làm giảm đáng kể hiệu suất sù dụng đạm (NUE). HI và NLIE đạt cao nhất ở mật độ trồng M2 và sau đó giảm dần khi tăng lên mức M3 và M4. HI và NUE có tương quan thuận và chặt ở mức có ý nghĩa thống kê với năng suất bắp tươi (r2 = 0,80*** và r2 = 0,66*** tương ưng trong vụ đông 2019
r2= 0,53* và r2 = 0,30* tương ứng trong vụ xuân 2020). Bón đạm với liều lượng cao (P4) làm giảm năng suất bắp tươi có thế do HI và NUE giảm. Hàm lượng anthocyanin trung bình của giống VNUA141 ở vụ đông 2019 cao hơn so với vụ xuân 2020, tuy nhiên không có sự sai khác có ý nghĩa thông kê giữa các công thức thí nghiệm. Kết quả phân tích độ ổn định và thích nghi bằng mô hình AMMI ở cả hai vụ thí nghiệm cho thấy tổ hợp phân bón đạm P3 (160N:90P2O5:90K2Okg/ha) và mật độ trồng M2 (70x28cm) là tối ưu nhất để canh tác giống ngô nếp tím lai VNUA141.