Chủng nấm mốc Aspergillus oryzae A2 được tuyển chọn, sưu tập từ Bộ sưu tập giống của Bộ môn Công nghệ Sinh học, Trường Đại học Bách Khoa - Hà Nội, có độ thuần khiết cao. Khô đậu tương sử dụng trong quá trình nghiên cứu được nhập theo nguồn từ Ấn Độ. Mục đích của nghiên cứu nhằm xác định được các yếu tố công nghệ phù hợp cho khả năng sinh tổng hợp protease từ nấm mốc Aspergillus oryzae khi nuôi cấy trên môi trường khô đậu tương. Kết quả nghiên cứu đã xác định được điều kiện tối thích để thu được hoạt độ protease khi nuôi cấy chủng nấm mốc Aspergillus oryzae cho hoạt lực Protease cao nhất trên môi trường khô đậu tương bằng phương pháp bề mặt: Điều kiện tối thích để thu được hoạt độ protease khi nuôi cấy chủng nấm mốc Aspergillus oryzae cho hoạt lực Protease cao nhất trên môi trường khô đậu tương bằng phương pháp bề mặt có các thông số chất lượng cụ thể như sau: thời gian nuôi cấy là 36 giờ, nhiệt độ nuôi cấy là 30oC, độ ẩm ban đầu của môi trường là 40%, tỷ lệ giống bổ sung so với khối nguyên liệu sau hấp khử trùng là 1,0%, tỷ lệ thành phần môi trường là 90% khô đậu tương và 10% là bột mì. Tiến hành nuôi cấy Aspergillus oryzae A2 trên môi trường khô đậu tương theo điều kiện này đã xác định hoạt lực Protease trung bình là 67,01 ± 0,04 đvHđP/g. Ở thời điểm này đính bào tử nấm mốc có màu vàng hoa cau. Trên cơ sở này, tiến hành quá trình lên men, ủ ẩm, trích ly nước chấm sẽ đạt hiệu quả cao nhất.