Nifedipin là thuốc chẹn kênh calci thuộc nhóm dihydropyridin thường được sử dụng để điều trị bệnh tăng huyết áp và chứng đau thắt ngực. Nifedipin có độ tan trong nước kém, thời gian bán thải ngắn khoảng 2 - 4 giờ, dẫn đến phải dùng nhiều lần trong ngày, nhiều tác dụng không mong muốn và sinh khả dụng thấp. Bơm thẩm thấu kéo - đẩy chứa nifedipin được bào chế để khắc phục những nhược điểm trên. Mục đích của nghiên cứu này là khảo sát ảnh hưởng của các yếu tố thuộc về công thức đến giải phóng của thuốc, từ đó lựa chọn ra các thành phần của viên nifedipin giải phóng kéo dài dựa trên hệ số f2 thu được khi so sánh đồ thị hòa tan của viên nghiên cứu với viên Adalat LA. Các yếu tố thuộc về công thức như là: khối lượng phân tử của polyethylen oxid (PEO) và tỷ lệ tá dược thẩm thấu trong lớp chứa dược chất và lớp đẩy, bề dày màng bao (được tính bằng khối lượng tăng lên so với nhân), kích thước lỗ giải phóng thuốc, loại và tỷ lệ chất hóa dẻo đã được đánh giá. Kết quả cho thấy viên nifedipin 30 mg thẩm thấu bào chế được có khả năng giải phóng dược chất theo động học bậc 0 đến 20 giờ và đồ thị giải phóng của viên bào chế được tương tự so với viên Adalat LA. Viên bào chế được chứa: PEO N10 và PEO 303 lần lượt trong lớp chứa dược chất và lớp đẩy
tỷ lệ tá dược thẩm thấu trong lớp chứa dược chất và lớp đẩy lần lượt là 10% và 30% so với khối lượng của từng lớp
khối lượng màng bao bán thấm tăng lên so với viên nhân là 12%
kích thước lỗ giải phóng dược chất là 0,8 mm.