Kết quả nghiên cứu cho thấy, biện pháp hiệu quả nhất là tỉa thưa, trong đó có 75 loài (chiếm 74,26% tổng số loài) thuộc 14 chi (chiếm 93,33% tổng số chi)
Chỉ số Shannon H = 2,5 và độ phong phú tương đối cao nhất là 17,7 phần trăm. Phương pháp tiếp theo là phương pháp trồng bổ sung, có chỉ số tương ứng là 70 loài (chiếm 63,37%), thuộc 14 họ (chiếm 93,33%)
H = 2,3 và độ phong phú tương đối cao nhất là 15,6 phần trăm. Kiểm lâm phát hiện 62 loài, chiếm 61,39% thuộc 13 họ, chiếm 86,67%
Shannon H = 2,2 và độ phong phú tương đối cao nhất là 17,3 phần trăm. Nếu không có tác động, chỉ số tương ứng là 37 loài (chiếm 36,63%), 11 họ (chiếm 73,33%)
H = 1,9 và độ phong phú tương đối cao nhất tương ứng là 16,2 phần trăm. Các loài cần được bảo tồn và phát triển gồm 43 loài thuộc 5 họ, 7
4
11
4
và 17, lần lượt thuộc họ Lucanidae, Passlidae, Scarababidae, Coccinellidae và Carabidae. Để bảo tồn và phát triển các loài này, có thể áp dụng ba phương pháp chính. Các biện pháp kỹ thuật lâm sinh nhằm điều chỉnh và tạo môi trường sống thích hợp, cần kết hợp nhiều phương pháp với nhau như bảo vệ sinh cảnh
bảo vệ theo định hướng và tái tạo có hỗ trợ lao động
bảo vệ theo định hướng và tái sinh có hỗ trợ lao động với trồng bổ sung, bảo dưỡng rừng, trồng làm giàu, phục hồi đất rừng, trồng rừng và phát triển vườn hộ. Đối với phương pháp tiếp cận sinh học, có thể nuôi một số loài thuộc họ Lucanidae, Passlidae, Scarababidae, Coccinellidae bằng phương pháp bán nhân tạo. Hậu quả cũng cho thấy rằng việc xây dựng một chương trình giám sát các loài này, môi trường sống của chúng và tác động của con người là một trong những động lực quan trọng để bảo tồn và phát triển khu hệ bọ cánh cứng.