So sánh tỉ lệ có thai trên người bệnh có tiền sử chuyển phôi thất bại hai lần liên tiếp (RIF) giữa nhóm bơm huyết tương giàu tiểu cầu tự thân (PRP) trước khi chuyển phôi và nhóm không bơm. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu trên 414 người bệnh RIF, đến khám và điều trị tại Trung tâm Hỗ trợ sinh sản, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh từ năm 2020 đến 2022. Kết quả: Có 55 người bệnh nhóm PRP và 359 người bệnh không bơm PRP, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tuổi, chỉ số khối cơ thể, nguyên nhân vô sinh, tiền sử mổ đẻ, tiền sử mổ nội soi vô sinh ở hai nhóm. Tỉ lệ có thai là 49,0% ở nhóm bơm PRP, 49,6% ở nhóm không bơm PRP (p=0,97) khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Ngoài ra, các kết cục khác giữa nhóm PRP và nhóm chứng lần lượt là tỉ lệ thai sinh hoá (7,0% và 7,8% với p=0,93), tỉ lệ thai lâm sàng (42,0% và 41,8% với p=0,94), tỉ lệ hỏng thai (7,0% và 6,7% với p=0,85), tỉ lệ thai diễn tiến (35% và 35,1% với p=0,99), tỉ lệ phôi làm tổ (42,0% và 30,1% với p=0,21) không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Tuy nhiên ở người bệnh có tiền sử chuyển phôi thất bại liên tiếp từ 3 lần trở lên, nhóm PRP có tỉ lệ làm tổ (41,5% so với 30%, p=0,001) và tỉ lệ có thai diễn tiến (34,1% so với 31,2%, p=0,79) cao hơn so với nhóm chứng. Kết luận: Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỉ lệ có thai sau chuyển phôi giữa nhóm người bệnh RIF có độ dày nội mạc tử cung lớn hơn 9mm được bơm PRP và nhóm chứng. PRP nên được cân nhắc ở các bệnh nhân RIF có tiền sử chuyển phôi thất bại liên tiếp từ ba lần trở lên do nhóm PRP có tỉ lệ thai làm tổ cao hơn nhóm chứng.