Điều tra được tiến hành từ tháng 01 đến tháng 10 năm 2020 trên 180 hộ với số lượng 1.034 con bò, trong đó 507 con cái sinh sản tại 3 huyện Châu Thành, Cầu Ngang và Trà Cú, tỉnh Trà Vinh nhằm đánh giá hiện trạng nuôi bò sinh sản tại nông hộ. Kết quả cho thấy cơ cấu giống: bò cái LS chiếm 56,4%, lai F 1 (Cha x LS) là 30,6% còn lại các giống lai F 1 BBB, Brahman và Droughtmaster. Số hộ phỏng vấn có chuồng bò kiên cố là 80,6%, phương thức nuôi nhốt hoàn toàn 61,1%, theo dõi bò động dục 71,1%, ghi chép ngày phối giống 91,1%, đỡ đẻ bò cái lúc sinh 90% và gieo tinh nhân tạo là 95%. Một số kỹ thuật quan trọng chưa được các hộ quan tâm như tách bò mẹ sắp sinh con (31,1%), cai sữa bê sớm lúc ≤ 4 tháng tuổi (37,2%), tiêm phòng vaccine (36,1%) và tẩy giun sán (40,5%). Đa số các hộ nuôi bò sinh sản đều sử dụng thức ăn thô là cỏ trồng, rơm khô và bổ sung cám gạo hoặc thức ăn hỗn hợp cho bò cái mang thai 2 tháng trước khi đẻ và bò mẹ 4 tháng nuôi con. Tuổi động dục và phối giống lần đầu, thời gian phối lại sau đẻ, khoảng cách lứa đẻ của bò LS lần lượt là 18,8, 20,4 tháng, 116,6, 397,5 ngày và bò lai Cha lần lượt là 20,1, 23,6 tháng, 132,1, 414,9 ngày. Các hộ chăn nuôi bò sinh sản có những khó khăn chính như thiếu cỏ xanh, rơm khô vào mùa khô và bò phối giống nhiều lần không đậu thai.