Mô tả một số đặc điểm lâm sàng (tuổi, giới tính, vị trí, kích thước). Phân loại mô bệnh học theo cập nhật WHO 2019 các tổn thương/polyp răng cưa ở ĐTT. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 136 trường hợp/130 bệnh nhân được sàng lọc bằng chẩn đoán, từ khóa, hình ảnh từ 1915 trường hợp đã được chẩn đoán tổn thương/polyp răng cưa ở ĐTT tại bộ môn Mô phôi – Giải phẫu bệnh, Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh từ 01/2019 đến 05/2021. Kết quả: Độ tuổi mắc bệnh các tổn thương/polyp răng cưa ở ĐTT được ghi nhận từ 30-92 tuổi, trong đó đỉnh tuổi từ 61 – 70. Tỉ lệ nam giới mắc bệnh cao gần gấp đôi nữ. Polyp tăng sản (HP), tổn thương răng cưa không cuống (SSL), u tuyến răng cưa truyền thống (TSA) thường ở vị trí đại tràng xa trong khi tổn thương răng cưa không cuống nghịch sản (SSLD) có vị trí gần tương đương nhau. HP và SSL thường có kích thước nhỏ hơn 5mm, SSLD có thể nhỏ hoặc lớn 5mm nhưng đa số nhỏ hơn 10mm, TSA thường lớn hơn 10mm. Trong 110 trường hợp đã được chẩn đoán tổn thương/polyp răng cưa, phân loại theo cập nhật WHO 2019 thu được kết quả: 25 HP, 07 SSL, 08 SSLD, 24 TSA, 01 u tuyến răng cưa không phân loại (USA) và 45 trường hợp không thuộc phân loại tổn thương/polyp răng cưa. Trong 64 trường hợp HP nghi ngờ thuộc tổn thương/polyp răng cưa khác, phân loại theo cập nhật WHO 2019 thu được kết quả: 51 HP, 08 SSL, 03 SSLD, 02 TSA. 29 trường hợp u tuyến ống – nhánh (TVA) nghi ngờ thuộc tổn thương/polyp răng cưa khác, phân loại lại theo cập nhật WHO 2019 thu được kết quả: 27 TVA, 02 TSA. Kết luận: Độ tuổi mắc bệnh ghi nhận được từ 30 – 92 tuổi, đỉnh tuổi mắc bệnh các nhóm tổn thương tương tự nhau từ 61 – 70 tuổi, tỉ lệ nam giới mắc bệnh gần gấp đôi nữ. HP, SSL, TSA thường có vị trí ở đại tràng xa hơn đại tràng gần, trong khi SSLD thì gần tương đương nhau. HP và SSL thường có kích thước nhỏ hơn 5mm, SSLD có thể nhỏ hơn hoặc lớn hơn 5mm nhưng đa số nhỏ hơn 10mm, TSA thường lớn hơn 10mm. Có thể chẩn đoán nhầm SSL là polyp tăng sản (HP) trên những mẫu có định hướng kém, TSA có thể bị bỏ sót từ TVA.