Theo số liệu thống kê đất đai, tính đến 31/12/2021 đất lâm nghiệp có diện tích là 15.439.656 ha, chiếm 46,6 % tổng diện tích tự nhiên của cả nước (33.134.480 ha), chiếm 55,15% diện tích đất nông nghiệp. Trong những năm qua, với các quy định ngày càng hoàn thiện, đầy đủ của pháp luật về đất đai, lâm nghiệp và các pháp luật khác có liên quan, công tác quản lý, sử dụng đất lâm nghiệp mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội và môi trường ngày càng cao
diện tích đất lâm nghiệp có rừng được bảo vệ và phát triển
việc giao đất, giao rừng cũng như việc quản lý, sử dụng và bảo vệ đất lâm nghiệp đã từng bước được ổn định
cùng với đó là việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến đất lâm nghiệp của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã đạt hiệu quả cao, đảm bảo quyền lợi của các chủ thể sử dụng đất lâm nghiệp. Pháp luật hiện hành quy định khá toàn diện, đầy đủ về các nội dung liên quan đến quản lý, sử dụng đất lâm nghiệp nói chung, đất lâm nghiệp có rừng nói riêng. Các quy định pháp luật đã cơ bản bảo đảm bảo vệ nghiêm ngặt đối với đất có rừng tự nhiên, đặc biệt là đất rừng phòng hộ và đất rừng đặc dụng
đồng thời khuyến khích phát triển đất lâm nghiệp có rừng, tạo thuận lợi cho các chủ thể khai thác tiềm năng, lợi thế của đất lâm nghiệp để tăng thu nhập, phát triển kinh tế và bảo đảm lợi ích của Nhà nước. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, vẫn còn những tồn tại, hạn chế, bấp cập trong chính sách, pháp luật về quản lý, sử dụng đất lâm nghiệp nên hiệu quả sử dụng đất lâm nghiệp còn hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng. Để khắc phục những tồn tại, hạn chế này, cần có những giải pháp mang tính tổng thể, trong đó cần phải tổng kết đánh giá những mặt mạnh, điểm yếu về chính sách, pháp luật đất đai hiện hành về quản lý, sử dụng đất lâm nghiệp
từ đó đề xuất các giải pháp, rà soát hoàn thiện chính sách, pháp luật đất đai về quản lý, sử dụng đất lâm nghiệp, góp phần bảo vệ, phát triển đất lâm nghiệp có rừng, đồng thời khai thác sử dụng hiệu quả, bền vững đất lâm nghiệp, bảo đảm thích ứng với biến đổi khí hậu đang diễn ra phức tạp, khó lường.