Tỷ lệ đề kháng kháng sinh của Staphylococcus aureus và enterococci ngày càng tăng cao và đặt ra nhiều thách thức trong việc lựa chọn kháng sinh phù hợp. Nghiên cứu này tiến hành nhằm khảo sát tình hình đề kháng và việc điều trị nhiễm khuẩn do các vi khuẩn Gram dương này. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang mô tả trên 304 bệnh nhân nhiễm khuẩn do ít nhất một trong các tác nhân S. aureus, E. faecalis và E. faecium từ tháng 6/2021 đến tháng 3/2022 tại Bệnh viện Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh. Kết quả: S. aureus kháng methicillin (MRSA) chiếm 76,3% trong tổng số S. aureus phân lập. 98,2% S. aureus và 13,5% E. faecalis kháng penicillin, chưa ghi nhận kháng vancomycin và linezolid. Tỷ lệ đề kháng của E. faecium với penicillin G, vancomycin, daptomycin và linezolid là 84,5%, 40,7%, 98,1% và 1,8%. Đa số các vi khuẩn có nồng độ ức chế tối thiểu (MIC) vancomycin ≤ 1mg/L và MIC linezolid ≤ 2mg/L. Vancomycin là kháng sinh kinh nghiệm được sử dụng nhiều nhất (45,1%). Phác đồ kháng sinh kinh nghiệm phổ biến nhất là phối hợp 2 kháng sinh (53,6%). Trong nhóm cần điều chỉnh kháng sinh kinh nghiệm, 58,8% trường hợp kháng sinh ban đầu có có phổ kháng khuẩn phù hợp với kết quả vi sinh. Kết luận: MRSA và E. faecium kháng vancomycin được phân lập với tỷ lệ cao. Cần điều chỉnh kháng sinh sau khi có kết quả cấy nhằm nâng cao tính hợp lý trong sử dụng kháng sinh.