Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến tính thích nghi sinh kế của hộ nuôi trồng thủy sản dưới tác động của việc ngăn đập Ba Lai, tỉnh Bến Tre=Study on the factors affecting the livelihood adaptability of aquaculture households under the impact of the ba lai dam in Ben Tre province

 0 Người đánh giá. Xếp hạng trung bình 0

Tác giả: Hoài Giang Trần

Ngôn ngữ: vie

Ký hiệu phân loại:

Thông tin xuất bản: Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 2024

Mô tả vật lý: tr.71-82

Bộ sưu tập: Báo, Tạp chí

ID: 475929

A study using primary data from 212 aquaculture households (79 households outside the Ba Lai dam, 71 households inside the dam and 62 control households outside and not affected by the dam) from 6 communes in Ba Tri and Binh Dai districts, Ben Tre province. The IPCC livelihood adaptability measurement method and the DFID sustainable livelihoods framework were used to classify and measure five household livelihood capitals, showing that the livelihood adaptability of surveyed households is at a moderate level (LAC = 0.331). The results of the Tukey pairwise comparison and ANOVA analysis show that households with aquaculture areas inside and outside the Ba Lai dam have livelihood adaptability capacities of (LAC = 0.312 and 0.313) respectively, lower than the control group (LAC = 0.374), with average differences of -0.0615 and - 0.0610 and a p-value = 0.000. The results of multivariate linear regression analysis indicate that, except for the gender variable where the household head is female, factors such as the age, experience of the household head, number of main laborers, and the area of aquaculture land are positively correlated with the five livelihood capital values and the livelihood adaptability of the households.Nghiên cứu với dữ liệu sơ cấp từ 212 hộ nuôi trồng thủy sản (NTTS) (79 hộ ở ngoài đập Ba Lai, 71 hộ ở trong đập và 62 hộ đối chứng ở bên ngoài và không chịu ảnh hưởng của đập) thuộc 6 xã ở huyện Ba Tri và Bình Đại, tỉnh Bến Tre. Sử dụng phương pháp đo lường tính thích nghi sinh kế của IPCC và khung sinh kế bền vững của DFID để phân loại và đo lường năm nguồn vốn sinh kế của nông hộ cho thấy, tính thích ứng sinh kế của các hộ khảo sát ở mức trung bình (LAC = 0,331). Kết quả so sánh cặp đôi Tukey và phân tích ANOVA cho thấy, các hộ NTTS ở trong và ngoài đập Ba Lai có năng lực thích ứng sinh kế lần lượt là LAC = 0,312 và 0,313, thấp hơn so với nhóm đối chứng LAC = 0,374, với sự khác biệt trung bình lần lượt là -0,0615 và -0,0610 và p-value = 0,000. Kết quả phân tích hồi quy tuyến tính đa biến chỉ ra rằng, ngoại trừ biến giới tính của chủ hộ là nữ, các yếu tố tuổi, kinh nghiệm của chủ hộ, số lượng lao động chính của hộ và diện tích đất NTTS đều có tương quan thuận có ý nghĩa thống kê đến năm giá trị vốn sinh kế và tính thích nghi sinh kế của nông hộ.
Tạo bộ sưu tập với mã QR

THƯ VIỆN - TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP.HCM

ĐT: (028) 36225755 | Email: tt.thuvien@hutech.edu.vn

Copyright @2024 THƯ VIỆN HUTECH