Đánh giá tình trạng dinh dưỡng và mô tả một số yếu tố liên quan đến dinh dưỡng của sinh viên năm thứ nhất và năm thứ ba trường Đại học Y Hà Nội. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 553 sinh viên (256 sinh viên Y1 và 297 sinh viên Y3). Tình trạng dinh dưỡng được đánh giá theo BMI khuyến nghị của WPRO, thông tin về chế độ ăn được khai thác bằng bộ câu hỏi KomPAN. Các yếu tố liên quan với tình trạng dinh dưỡng được kiểm định bằng test χ2. Kết quả: 60,8% sinh viên có BMI bình thường, 22,8% bị CED và 17,4% thừa cân/béo phì, tỷ lệ sinh viên bị béo bụng tới 77,2%. Đa số sinh viên có chế độ ăn lành mạnh (68,5%). Một chế độ ăn lành mạnh theo đánh giá chủ quan của đối tượng và tần suất ăn uống đúng giờ có mối liên quan với các mức độ của tình trạng dinh dưỡng (p <
0,05). Kết luận: Tỷ lệ CED và thừa cân/béo phì của sinh viên trường Đại học Y Hà Nội còn cao, mặc dù chế độ ăn nhìn chung lành mạnh. Cần tăng cường các chiến lược can thiệp để kiểm soát, phòng ngừa các yếu tố nguy cơ, nhằm cải thiện tình trạng dinh dưỡng cho sinh viên trường Đại học Y Hà Nội.This study aimed to assess the nutritional status, and describe some associated factors among the first and third-year students at Hanoi Medical University. Subject and method: A cross-sectional descriptive study on 553 students (256 first-year students and 297 third-year students) at Hanoi Medical University in 2023. Nutritional status was evaluated using BMI criteria by WPRO
data on dietary intake were collected through the KomPAN questionnaire. The relationship between associated factors and nutritional status was assessed by a χ2 test. Results: 60.8% of students had normal BMI, 22,8% had CED and 17,4% were overweight/obese. The percentage of abdominal obesity made up 77.2%. Most students had a healthy diet (68.54%). A healthy diet according to the subject’s assessment and the frequency of eating on time were associated with levels of the nutritional status (p <
0.05). Conclusion: The prevalence of CED and overweight/obesity among students at Hanoi Medical University remains high, despite a generally healthy diet. It is necessary to have some intervention strategies to control and prevent risk factors, then improve the nutritional status among students of Hanoi Medical University.