Thực trạng bệnh trứng cá và một số yếu tố liên quan của học sinh các trường trung học cơ sở tại Hà Nội năm 2022=Acnes and associated factors among junior high school students in Hanoi, 2022

 0 Người đánh giá. Xếp hạng trung bình 0

Tác giả: Thị Thúy Hồng Đàm, Thị Yến Đinh, Văn Toàn Ngô, Minh Quang Nguyễn, Thị Ngọc Yến Nguyễn, Thị Hiền Vũ

Ngôn ngữ: vie

Ký hiệu phân loại:

Thông tin xuất bản: Y học cộng đồng, 2023

Mô tả vật lý: tr.46-53

Bộ sưu tập: Metadata

ID: 477678

 Mô tả tỷ lệ mắc trứng cá ở học sinh trung học cơ sở và một số yếu tố liên quan tại Hà Nội năm 2022. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang được thực hiện trên 1751 học sinh từ 11 – 15 tuổi đang học tại 4 trường Trung học cơ sở trên địa bàn thành phố Hà Nội. Đối tượng nghiên cứu được phỏng vấn bằng bộ câu hỏi tự điền dưới sự hướng dẫn của điều tra viên, sau đó được các bác sĩ da liễu khám xác định tình trạng trứng cá. Phân loại mức độ nặng của bệnh trứng cá theo thang phân độ của Karen McKoy (2008). Kết quả: Tỷ lệ hiện mắc bệnh trứng cá ở đối tượng nghiên cứu là 21,7%, phụ thuộc nhiều vào tuổi và giới với tỷ lệ mắc trứng cá tăng dần theo tuổi
  26,2% trẻ nữ và 17,7% trẻ nam có mụn trứng cá. Các yếu tố nguy cơ chính của mụn trứng cá là tình trạng dậy thì (OR=2,82
  95%CI: 2,04-3,90), da dầu và hỗn hợp thiên dầu (OR=1,90
  95% CI: 1,48-2,43). Chưa xác định được mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa tiền sử gia đình, các bệnh mắc phải và thói quen ăn uống, sinh hoạt với thực trạng mắc bệnh trứng cá. Kết luận: Tỷ lệ mụn trứng cá ở học sinh trung học cơ sở là khá cao (21,7%). Các yếu tố như dậy thì, da dầu và hỗn hợp thiên dầu là những yếu tố nguy cơ cao của mụn trứng cá trên học sinh.To describe the prevalence of acne among junior high school students in Hanoi in 2022 and related factors. Subjects and methods: A cross-sectional study was carried out among 1751 students aged 11-15 at four secondary schools in Hanoi City. Study subjects were interviewed face-to-face using structured questionnaires. Dermatologists also checked them. Classification of the severity of acne was following Karen McKoy’s scale (2008). Results: The prevalence of acne in the study subjects was 21.7%, strongly associated with age and gender (26.2% of girls and 17.7% of boys). The main risk factors of acne were puberty (OR=2.82
  95%CI: 2.04-3.90) and oily and combination skin (OR=1.90
  95%CI: 1.48-2.43). No statistically significant association was found between family history, acquired diseases, eating and living habits, and acne status. Conclusion: The prevalence of acne in junior high school students was relatively high (21.7%). Factors such as puberty, oily, and combination skin were high-risk factors for acne in students.
Tạo bộ sưu tập với mã QR

THƯ VIỆN - TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP.HCM

ĐT: (028) 36225755 | Email: tt.thuvien@hutech.edu.vn

Copyright @2024 THƯ VIỆN HUTECH