Kết quả bước đầu ứng dụng vạt rãnh mũi má trong tạo hình khuyết hổng khoang miệng sau phẫu thuật ung thư=Initial evaluate the results of application of nasolabial flaps in shaping oral cavity defects after surgery

 0 Người đánh giá. Xếp hạng trung bình 0

Tác giả: Thị Hiền Cao, Văn Ngọ Hà, Vi Tiến Ngô, Quang Trung Nguyễn

Ngôn ngữ: vie

Ký hiệu phân loại:

Thông tin xuất bản: Tạp chí Y học Việt Nam (Tổng hội Y học Việt Nam), 2024

Mô tả vật lý: tr.135-141

Bộ sưu tập: Metadata

ID: 477981

 Bước đầu đánh giá kết quả ứng dụng vạt rãnh mũi má trong tạo hình khuyết hổng khoang miệng sau phẫu thuật điều trị ung thư biểu mô khoang miệng tại bệnh viện Ung bướu Nghệ An. Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang chùm ca bệnh bao gồm 16 bệnh nhân mắc ung thư khoang miệng được phẫu thuật cắt rộng u và tạo hình bằng vạt rãnh mũi má tại khoa Ngoại đầu cổ, Bệnh viện Ung bướu Nghệ An giai đoạn từ tháng 01/2022 đến T4/2024. Kết quả: Trong số 16 bệnh nhân nghiên cứu, tuổi mắc bệnh trung bình là 58.8 ± 10.3 tuổi
  Tỷ lệ Nam/Nữ 1.67/1. Bệnh nhân chủ yếu ở giai đoạn T2 (68.74%) và N0 (81.25%). Kích thước vạt rãnh mũi má, chiều dài trung bình 58.6 ± 6.5 mm, chiều rộng trung bình 30.8 ± 3.8 mm. Tình trạng vạt tạo hình sau mổ 100% sống. Chức năng phát âm và nuốt sau mổ đều đạt kết quả tốt ở tất cả các bệnh nhân. Kết luận: Vạt rãnh mũi má là lựa chọn thích hợp cho các khuyết hổng trong khoang miệng kích thước từ nhỏ đến trung bình sau cắt bỏ u nguyên phát do đây là kỹ thuật an toàn, hiệu quả, tỷ lệ biến chứng thấp, kèm theo kết quả chức năng, thẩm mỹ tốt.To provide a preliminary assessment of the application of nasolabial flaps in reconstructing oral cavity defects after surgery for oral squamous cell carcinoma at Nghe An Oncology Hospital. Methods: A cross-sectional descriptive study involving 16 patients with oral cancer who underwent wide tumor excision and reconstruction using nasolabial flaps at the Head and Neck Surgery Department of Nghe An Oncology Hospital from January 2022 to April 2024. Results: Among the 16 patients, the average age was 58.8 ± 10.3 years, with a male-to-female ratio of 1.67:1. Most patients were in stage T2 (68.74%) and N0 (81.25%). The average flap length was 58.6 ± 6.5 mm, and the average width was 30.8 ± 3.8 mm. All flaps survived postoperatively (100%). Postoperative speech and swallowing functions were good in all patients. Conclusion: The nasolabial flap is a suitable option for reconstructing small to medium-sized oral cavity defects following tumor excision. It is a safe and effective technique with a low complication rate, providing good functional and aesthetic outcomes.
Tạo bộ sưu tập với mã QR

THƯ VIỆN - TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP.HCM

ĐT: (028) 36225755 | Email: tt.thuvien@hutech.edu.vn

Copyright @2024 THƯ VIỆN HUTECH