Đánh giá hiệu quả về cân nặng, BMI và chất lương cuộc sống của chế độ ăn hạn chế iod trong 2 tuần so với 4 tuần của người bệnh ung thư tuyến giáp tại Bệnh viện Ung Bướu Hà Nội năm 2021-2022. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu so sánh tiến hành trên 2 nhóm bệnh nhân (56 người/nhóm) có so sánh trước – sau. Một nhóm được được tư vấn và thực hiện chế độ ăn hạn chế iod trong 2 tuần
một nhóm được tư vấn và thực hiện chế độ ăn hạn chế iod ≥ 4 tuần theo thường quy. Các chỉ số đánh giá bao gồm cân nặng, BMI và QLQ THY34. Kết quả: Nhóm hạn chế iod 2 tuần có cân nặng trung bình giảm 0,2±0,5 kg, nhóm hạn chế iod ≥ 4 tuần giảm trung bình 0,1±1,3 kg. Sự khác biệt giữa cân nặng trước hạn chế iod và sau hạn chế iod sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p>
0,05. Nhóm hạn chế iod 2 tuần có BMI trung bình giảm 0,08±1,1, nhóm hạn chế iod ≥ 4 tuần giảm trung bình 0,1±0,5, sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p>
0,05. Điểm các triệu chứng khác ở bộ đánh giá chất lượng sống QLQ THY34 ở nhóm hạn chế iod 2 tuần đều thấp hơn nhóm hạn chế iod ≥ 4 tuần, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p <
0,05. Kết luận và khuyến nghị: Chế độ ăn hạn chế iod trong 2 tuần không cho thấy hiệu quả khác biệt so với chế độ ăn hạn chế iod 4 tuần về sự thay đổi cân nặng và BMI trước và sau hạn chế iod. Có sự cải thiện các chỉ số chất lượng cuộc sống ở nhóm sử dụng chế độ ăn hạn chế iod 2 tuần so với chế độ ăn hạn chế iod 4 tuần. Cần mở rộng can thiệp chế độ ăn hạn chế iod trong 2 tuần tại các bệnh viện có điều trị bằng I131 để người bệnh được tiếp cận điều trị sớm và nâng cao chất lượng sống.To evaluate the effects of the 2-week versus 4-week low-iodine diet on weight, BMI and the quality of life (QoL) of thyroid cancer patients at Hanoi Oncology Hospital in 2021-2022. Subjects and Methods: The comparative study with pre-post comparison was conducted on two groups of patients (56 participants/group). One group was counseled and followed a low iodine diet for 2 weeks
the other group was counseled and followed a standard low-iodine diet for ≥ 4 weeks. The evaluation indicators included weight, BMI and QLQ-THY34. Results: The group with 2-week low-iodine diet had an average weight loss of 0.2±0.5 kg, while the group with ≥ 4-week low-iodine diet had an average weight loss of 0.1±1.3 kg. The difference between the weight before and after iodine restriction was not statistically significant (p>
0.05). The group with 2-week low-iodine diet had an average BMI loss of 0.08±1.1, the group with ≥ 4-week low-iodine diet had an average weight loss of 0.1±0.5, the pre-post difference was not statistically significant (p>
0.05). The scores of other symptoms in the THY34 QLQ assessment of the 2-week low-iodine diet group were all lower than those of the ≥ 4-week lowiodine diet group
this difference is statistically significant (p <
0.05). Conclusions and recommendations: The effectiveness of 2-week low-iodine diet was not different from that of the 4-week low-iodine diet regarding changes in weight and BMI before and after iodine restriction, but there was an improvement of all QoL indicators in the 2-week low-iodine diet group compared to the 4-week low-iodine diet. It is necessary to expand the 2- week low-iodine diet intervention in hospitals that have radioiodine therapy to increase the opportunity for patients to access early treatment and improve the patient's quality of life.