Xác định thành phần vi nấm nhiễm trên cá tra giống (Pangasianodon hypophthalmus). Nấm được phân lập từ các bệnh trên hai môi trường gồm glucose yeast agar (GYA) và potato dextrose agar (PDA) và được ủ từ 5-7 ngày ở 28-30 độ C. Kết quả cho thấy năm giống nấm đã được định danh gồm Fusarium sp. (40,9 phần trăm), Aspergillus sp. (27,3 phần trăm), Achlya sp. (20,5 phần trăm), Saprolegnia sp. (6,8 phần trăm), Mucor sp. (4,5 phần trăm), Fusarium sp. và Aspergillus sp. nhiễm trên các cơ quan nhưng Achlya sp. Saprolegnia sp. và Mucor sp. chỉ nhiễm ở mang và cơ. Tỉ lệ nhiễm ở các cơ quan khác nhau trong đó mang (61,4 phần trăm), bóng hơi (19,3 phần trăm), cơ (8 phần trăm) và gan (8 phần trăm). Nhiệt độ tối ưu cho vi nấm phát triển từ 28-33 độ C. Fusarium sp. phát triển đến 35 độ C sau 7 ngày nhưng các giống vi nấm còn lại có thể tồn tại đến 38 độ C. pH 5-7 thích hợp cho các chủng nấm phát triển. Nấm sử dụng glucose, sucrose và maltose.Đề tài được thực hiện nhằm xác định thành phân vi nấm nhiễm trên cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) giai đoan bột đến giống. Tổng số 655 mẫu cá tra được thu tai 14 ao ương giống ở Cần Thơ, Vĩnh Long, An Giang và Đồng Tháp. Kết quả cho thấy tỉ lệ nhiễm vi nấm cao nhất ở cá giống (22,8%), kế đến là cá bột (20,5%) và thấp nhất ở cá hương (16,9%). Vi nấm nhiễm trên da ở cá bột, cá hương và cá giống với tỉ lệ lần lượt là 40,3%, 35,1% và 23,4%. Tỉ lệ nhiễm vi nấm ở da cá tra cao hơn các cơ quan khác như mang, gan, thận và bóng hơi. Bốn giống nấm đã được định danh gồm Fusarium sp. (43,9%), Aspergillus sp. (40,1%), Achlya sp. (11,5%) và Mucor sp. (4,5%). Fusarium sp., Aspergillus sp. và Achlya sp. nhiễm trên các cơ quan. Mucor sp. chỉ phân lập được ở da và mang cá bột và không phát hiện ở cá hương và giống. Fusarium sp. được tìm thấy với tỉ lệ nhiễm cao ở bóng hơi, đặc biệt vào giai đoạn cá giống nhiễm bệnh trương bóng hơi.