Phương pháp được đề xuất để xác định hàm lượng sắt dựa vào sự kết hợp của phương pháp chiết và trắc quang phức đơn ligan hệ Fe(III) với 1-(2-pyridylazo)-2-napthol bằng dung môi chiết isoamylic ở pH=3,74-5,5 với cơ chế tạo phức dạnh FeR2+. Hàm lượng Fe 3+ và sự khác biệt của độ hấp thụ cho thấy mối quan hệ tuyến tính cao trong khoảng nồng độ của Fe3+ là 0,5.,10 mũ -8-5,5., 10 mũ -6 M, với phương trình hồi quy là Delta Ai=2,26.CFe3+0,1487.Thủy Nguyên là một huyện lớn thuộc thành phố Hải Phòng, cùng với sự phát triển của kinh tế thì các hộ dân trên địa bàn huyện đã được sử dụng nước máy sạch được cung cấp bởi nhà máy nước. Tuy nhiên vẫn còn đa số người dân sử dụng nước giếng khoan làm nước sinh hoạt. Trong nước giếng khoan thường nhiễm các kim loại nặng đặc biệt là kim loại nặng sắt (Fe), làm cho nước có màu vàng đục và tanh. Nếu hàm lượng sắt vượt quá ngưỡng giới hạn cho phép trong nước sẽ gây ô nhiễm nguồn nước, đồng thời gây các bệnh tim, khớp, ung thư gan...ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe của con người. Từ những vấn đề đó, trong bài báo này, tôi tiến hành lấy mẫu nước giếng khoan tại bốn xã có số hộ dân sử dụng nước giếng khoan nhiều, sau đó tiến hành phân tích xác định hàm lượng ion sắt trong nước bằng phương pháp phân tích trắc quang. Kết quả phân tích cho thấy có hai xã có kết quả hàm lượng sắt vượt mức cho phép.Xác định hàm lượng tanin trong các cây thức ăn gia súc và ảnh hưởng của chế biến đến hàm lượng của tanin. Kết quả phân tích cho thấy hàm lượng tanin của các cây họ đậu 5-9% đối với mẫu tươi và ở mẫu sấy khô ở 65°C là 0,30-2,70%. Hàm lượng tanin của các cây họ hòa thảo 1,20-1,50% đối với mẫu tươi, ở mẫu sấy khô ở 65°C là 0,40-0,70%. Hàm lượng tanin của cây Chùm ngây là 1,44% và cây Trichantera là 1,49% đối với mẫu sấy khô ở 65°C còn đối với mẫu tươi là 4,48 và 7,27%. Lượng tanin ở mẫu tươi và mẫu được sấy khô ở 65°C (tất cả các mẫu đều được tính theo vật chất khô) thì hàm lượng tanin có sự khác biệt có ý nghĩa (P<
0,05), mẫu tươi có hàm lượng tanin cao hơn mẫu được sấy khô ở 65°C.