Canh tác nương rẫy là một phần không thể thiếu trong sinh kế của nhiều cộng đồng vùng cao
các loại cây trồng ngắn ngày phổ biến như ngô, khoai, sắn, lúa nương được canh tác theo các phương thức truyền thống nên năng suất và hiệu quả thấp. Khu vực nghiên cứu có khoảng 338.159,1 ha đất nương rẫy, chiếm 74,6% diện tích đất nông nghiệp. Diện tích nương rẫy của các hộ thấp, bình quân 0,81 ha/hộ và mỗi khẩu chỉ dưới 3.000m2
nương rẫy thường phân tán, nhỏ lẻ và xa nhà. Đất nương rẫy tập trung chủ yếu ở đai cao 700 -1.000m với diện tích 172.193,4 ha, đai cao 300 - 700m, đai cao dưới 300m và thấp nhất ở đai cao trên 1.000m. Phân bố đất nương rẫy chủ yếu trên đất dốc nhẹ với diện tích khoảng 138.210 ha, chiếm 40,9% tổng diện tích đất nương rẫy, tiếp đến trên đất có độ dốc trung bình 143.371 ha, đất dốc lớn 51.415 ha và thấp nhất ở đất có độ dốc rất lớn 5.161 ha. Các đặc trưng chủ yếu trong canh tác nương rẫy là: Đất nương rẫy thường ở xa nhà
áp lực dân số ngày càng tăng dẫn đến nhu cầu và thời gian sử dụng đất tăng lên, thời gian bỏ hóa rút ngắn lại
điều kiện canh tác khó khăn
cơ cấu cây trồng tương đối đơn giản, ... Năng suất các loại cây trồng trên đất nương rẫy hầu như đều giảm theo thời gian canh tác
nguyên nhân chính là do việc canh tác thiếu tính bền vững dẫn đến đất bị thoái hóa bạc màu, hiện tượng xói mòn rửa trôi lớp đất màu mỡ trên các nương canh tác diễn ra phổ biến.