Nghiên cứu có mục tiêu là khảo sát nồng độ HBsAg trên người HCC và tìm hiểu mối liên quan giữa tăng nồng độ HBsAg và HCC. Mô hình nghiên cứu bệnh - chứng: chọn 22 người vào nhóm chứng không HCC, HBeAg (-), tải lượng HBVDNA <
10 copies/ml (chưa điều trị HBV), tuân thủ theo dõi liên tục >
2 năm, AFP <
20 ng/ml) và 22 người chọn vào nhóm bệnh (đã chẩn đoán xác định HCC, HBsAg (+), chưa điều trị HCC). Phần tầng nguy cơ theo mức độ HBsAg >
1000 IU/ml và <
1000 IU/ml để tính OR (KTC95%). Nồng độ HBsAg trong nhóm HCC = 3.59 ± 0.37 log10 IU/ml cao hơn nhóm không HCC = 2.76 ± 0.9 log10 IU/ml sự khác biệt có ý nghĩa với P = 0.006. Chi số men gan AST, ALT ở nhóm người HCC cao hơn nhóm không HCC, sự khác biệt có ý nghĩa với P <
0.02, 81% trong nhóm HCC phù hợp với tình trạng AC và 68% trong nhóm không HCC phù hợp với tình trạng IC. 95% (21/22) những người HCC không điều trị HBV, còn lại (1/22) không tuân thủ điều trị: 91% (20/22) số người HCC có nồng độ HBsAg >
1000 IU/ml với OR=175 (KTC95%:3.2-95, P=0.001)
86% (19/22) người HCC tuổi >
40 với OR=31.2 (KTC95%:3.5-167,P<
0.001)
73% (16:22) người HCC là nam giới với OR=9.0( KTC95%: 1.3-99, P=0.01)
68% (15/22) người HCC có men ALT>
40 IU/ml với OR=9.6 (KTC95%: 2.4- 69, P=0.01)
64% (14/22) người có bệnh kèm theo phải sử dụng thuốc thường xuyên với OR=20 (KTC95% 0.96- 107.9, P=0.028). Có sự khác biệt có ý nghĩa về nồng độ HBsAg trong nhóm người HCC cao hơn so với nhóm không HCC, HBsAg >
1000 IU/ml là một trong những yếu tố nguy cơ trong nhóm HCC có 91% số BN có HBsAg >
1000 IU/ml so với 36.3% số BN trong nhóm không HCC có HBsAg >
1000 IU/ml, ngoài ra định lượng HBsAg còn là một dấu ấn quan trọng để phân biệt AC với IC, giúp đánh giá và theo dõi tiến triển của bệnh. Cần tuân thủ điều trị và theo dõi thường xuyên hơn nếu đồng thời có các yếu tố như: nam giới, tuổi >
40, HBsAg 1000 IU/ml
HBeAg
ALT>
40 IU/ml, có bệnh khác kèm theo để phát hiện sớm tình trạng AC, phát hiện sớm khối u gan.