Xác định mối liên quan giữa tình trạng DCVQ sau phẫu thuật nội soi điều trị UTTT với tái phát, di căn và thời gian sống thêm sau phẫu thuật. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Tất cả bệnh nhân UTTT được điều trị phẫu thuật triệt căn theo nguyên tắc cắt toàn bộ mạc treo trực tràng tại Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Cần Thơ. Số liệu được thu thập theo phương pháp tiến cứu. Kết quả: Có 68 bệnh nhân ung thư trực tràng được phẫu thuật nội soi. Thời gian theo dõi sau mổ trung bình là 20,9±9,2 tháng. Tỷ lệ DCVQ (+) là 30,9%. Tỷ lệ tái phát tại chỗ là 8,8%. Tỷ lệ di căn xa là 14,7%. Tỷ lệ tái phát ở nhóm có DCVQ (+) là 23,8%, ở nhóm có DCVQ (-) là 2,1% (p=0,003). Tỷ lệ di căn xa ở nhóm có DCVQ (+) là 38,1%, ở nhóm có DCVQ (-) là 4,2% (p<
0,001). Phân tích Kaplan-Meier cho thấy thời gian sống thêm không bệnh cải thiện có ý nghĩa (37,3±1,1 tháng, 95%CI:(35,1-39,5) so với 27,3±2,8 tháng, 95%CI:(21,9- 32,8) ở nhóm có DCVQ (-) so với nhóm DCVQ (+) (log-rank, p<
0,001). Kết luận: Tình trạng DCVQ là một yếu tố tiên lượng quan trọng đối với tái phát, di căn cũng như thời gian sống thêm không bệnh sau phẫu thuật