Kiến thức phòng bệnh giun truyền qua đất của người dân tộc còn nhiều hạn chế. Với phụ nữ trong độ tuổi sinh sản, nhiễm giun truyền qua đất ảnh hưởng tới thời kỳ mang thai, gây thiếu máu, sản non, trẻ thiếu cân, thậm chí có thể làm tử vong bà mẹ và trẻ sơ sinh. Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang tiến hành phỏng vấn trên 309 phụ nữ người dân tộc thiểu số độ tuổi 15-49 được chọn ngẫu nhiên có hệ thống. Thời gian nghiên cứu từ tháng 01/2021 đến tháng 7/2021 và địa điểm tại xã Đăk Wil, huyện Cư Jut, tỉnh Đăk Nông. Kết quả: Tỷ lệ phụ nữ có kiến thức về giun đũa chiếm tỷ lệ nhiều nhất (50,48%), kế tiếp là giun móc/mỏ (34,95%) và cuối cùng là giun tóc (26,86%). 89.81% đối tượng nghiên cứu có kiến thức về nhiễm giun truyền qua đất không đạt. Tỷ lệ người tiếp cận thông tin truyền thông còn thấp (56,31%) trong khi hầu hết đối tượng (98,38%) đều mong muốn được tiếp nhận thông tin truyền thông về phòng bệnh giun truyền qua đất. Phần lớn các thông tin đối tượng tiếp nhận được là qua cán bộ y tế (62,64%). Kết luận: Tỷ lệ phụ nữ dân tộc thiểu số thiếu kiến thức về giun truyền qua đất còn khá cao. Đa số đối tượng tham gia nghiên cứu đều không đạt về kiến thức phòng bệnh giun truyền qua đất. Gần một nửa đối tượng nghiên cứu chưa từng nhận thông tin về truyền thông phòng nhiễm giun truyền qua đất, trong khi đó, hầu hết đối tượng tham gia đều muốn được nhận thông tin truyền thông phòng bệnh.Preventive knowledge about soil-transmitted helminth infections o f ethnic minority is still limited. With women in reproductive age, soil-transmitted helminth infections affect pregnancy and cause anemia, premature birth, underweight children, and even death o f mothers and babies. Methods: This is a cross-sectional study that recruited 309 ethnic minority women aged 15-49 by systematic random sampling. The study period was from January 2021 to July 2021, and study site was Dak Wil Commune, Cu Jut District, Dak Nong Province. Results: The percentage o f women who knew about ascaris lumbricoides accountedfor the highest rank (50.48%), followed by ancylostomidae (34.95%)) and finally trichuris trichiura (26.86%)). 89.81%) ofpeople who joined the study had poor knowledge o f soil-transmitted helminth infections. The proportion o f people accessing formation and communication was still low (56.31%)) while most people (98.38%) wanted to receive information about the prevention o f soil-transmitted helminth infections. The majority o f information received was through health workers (62.64%)). Conclusions: The percentage o f ethnic minority women who lack knowledge was still high. Most participants did not have good enough knowledge ofprevention. Nearly half o f the study participants had never received any information about the prevention o f soil-transmitted helminth infections, while most o f the participants wanted to receive information about the prevention o f disease. Recommendation: The authorities and commune health stations should strengthen communication on preventive knowledge o f soil-transmitted helminth infections, especially those with low education, the Dao ethnic minority women and females with 36-49 years old. Focus on communicating to people about information related to the prevention o f soil-transmitted helminth infections.