Nghiên cứu này tập trung việc chế tạo vật liệu geopolymer sử dụng chất thải/phụ phẩm công nghiệp là zeolit thải và tro bay. Zeolit thải được cung cấp từ nhà máy lọc dầu Bình Sơn (Quảng Ngãi), có thành phần hạt khá mịn, hàm lượng SiO2 và Al2O3 tương ứng là 42,82% và 50,17%. Tro bay được cung cấp từ nhà máy nhiệt điện Formosa Đồng Nai, có thành phần SiO2 là 50,91%. Đề tài khảo sát nhiều loại cấp phối geopolymer, ảnh hưởng của mođun silicat của tác nhân hoạt hoá kiềm, hàm lượng zeolit thải, hàm lượng tro bay, nhiệt độ và thời gian dưỡng hộ đến cường độ và tính chất kỹ thuật của vật liệu. Kết quả cho thấy, vật liệu geopolymer sử dụng zeolit thải, dưỡng hộ ở 80oC trong 12 giờ có cường độ khá cao (sau 28 ngày đạt 36,98 MPa), lượng nước nhào trộn khi chế tạo cũng thấp hơn nhiều so với khi sử dụng tro bay.This study focused on fabrication of geopolymer materials using industrial waste/by-product such as waste zeolite and fly ash. Waste zeolite, supplied from Binh Son refinery plant (Quang Ngai Province), has a fairly fine particle composition, and SiO2 and Al2O3 content is 42.82% and 50.17%, respectively. Fly ash, supplied from Formosa thermal power plant (Dong Nai Province), has SiO2 composition of 50.91%. The study investigated various mixtures of geopolymer, the influence of silicate modulus of alkali activators, waste zeolite content, fly ash content, curing temperature and curing time on strength and technical properties of the material. The results showed that, the geopolymer material using waste zeolite, curing at 80oC for 12 hours has quite high strength (after 28 days it reaches 36.98 MPa), the amount of mixing water when making is also much lower than when using fly ash.