Cá thiều là loài có giá trị kinh tế. Cá thiều được nghiên cứu đặc điểm dinh dưỡng tại Kiên Giang tqf tháng 8/2010 đến thags 7/2014. Mẫu cá được thu hàng tháng từ ngư dân và các chợ địa phương. Kết quả nghiên cứu cho thấy, cá thiều có miệng rộng
răng hàm nhọn và sắc
răng vòm miệng nhỏ và mọc thành 3-4 cụm, răng hầu nhỏ, nhám và mọc thành 2 cụm. Thực quản ngắn, rộng và thành dày. Dạ dày lớn , hình cữ V, thành dày và có nhiều nếp gấp bên trong. Tương quan giữa chiều dài ruột và thân cá thiều là 1,76. thành phần thức ăn đa dạng và phong phú gồm 23 loài thuộc 4 nhóm: cá (14 loài - 60,87 phần trăm), động vật giáp xác (6 loài - 26,09 phần trăm), động vật da gai (2 loài - 8,7 phần trăm), động vật thân mềm (1 loài - 4,35 phần trăm). Tần suất các nhóm thức ăn khác nhau nhóm cá chiếm 60,46 phần trăm, nhóm động vật thân mềm là 38,46 phần trăm, nhóm động vật giáp xác là 32,97 phần trăm và nhóm động vật da gai là 24,18 phần trăm. Cá thiều là loài ăn động vật và ăn tầng đáy.