Trong 7 tháng điều tra trên 4 dạng sinh cảnh, nghiên cứu đa ghi nhận được 39 loài bướm phượng thuộc 9 giống, trong đó giống Papilio có số loài nhiều nhất (16 loài) và các giống Meandrusa, Pachliopta có số loài ít nhất (1 loài). Đai cao dưới 1000m (d=5,40, H'=2,79) có chỉ số phong phú (chỉ số Margalef) và chỉ số đa dạng sinh học (Chỉ số Shannon-Weiner) cao hơn đại trên 1000m (d=4,04, H'=2,41). Đai cao trên 1000m (J'=0,89) có chỉ số đồng đều về số lượng cá thể của các loài cao hơn ở đai cao dưới 1000m (J'=0,867). Mức độ tương đồng về thành phần loài của hai đai này không cao (SI=46,45 phần trăm). Chỉ số phong phú và chỉ số đa dạng sinh học cao nhất ở sinh cảnh Trảng cỏ (d=6,39, H'=3,05) và thấp nhất ở sinh cảnh Rừng phục hồi (d=2,08, H'=1,80). Chỉ số đồng đều cao nhất ở sinh cảnh Rừng phục hồi (J'=0,92) và thấp nhất ở sinh cảnh rừng dậm (J'=0,89). Cặp sinh cảnh Rừng rậm - rừng phục hồi có mức độ tương đồng về thành phần loài cao nhất (SI=61,53 phần trăm), tiếp đến là cặp sinh cảnh rừng rậm - trảng có (SI=39,87 phần trăm) và thấp nhất là cặp sih cảnh rừng phục hồi - trảng có (SI=37,56 phần trăm). Vùng khí hậu Bắc Hải Vân (d=6,19, H'=2,98) có các chỉ số phong phú (chỉ số Margalef) và chỉ số đa dạng sinh học (chỉ số Shannon-Weiner) ở cao hơn só với vùng khí hậu Nam Hải Vân (d=2,26, H'=2,09). Vùng Nam Hải Vân (J'=0,870) lại có chỉ số đồng đều (chỉ số Pielou) cao hơn vùng Bắc Hải Vân (J'=0,867). Mức độ tương đồng về thành phần loài ở hai vùng đặc trưng khí hậu là khá cao (SI=50,38 phần trăm).