Thành phần loài thuộc họ cá mú (Serranidae) ở vùng biển ven bờ Đà Nẵng và Quảng Nam khá đa dạng, có 6 giống với 30 loài (vùng biển ven bờ Đà Nẵng có 21 loài và Quảng Nam có 25 loài) chiếm 60 phần trăm thành phần loài thuộc họ cá mú ở vùng rạn san hô Việt Nam (50 loài) và bằng 42 phần trăm số loài ở vùng biển Việt Nam (72 loài), bằng 24 phần trăm số lượng loài thuộc họ cá mú ở Biển Đông (126 loài). Trong đó, giống cá song Epinephelus có số lượng loài nhiều nhất, với 17 loài. Số loài cá mú ở vùng biển ven bờ của Đà Nẵng và Quảng Nam đa dạng hơn các khu vực phía bắc như Quảng Ninh, ven bờ Bắc Trung Bộ
đồng thời cũng có số lượng loài nhiều hơn ở vùng rạn san hô quần đảo Trường Sa. Tuy nhiên thấp hơn vùng biển ven bờ Khánh Hòa (36 loài). Thành phần loài cá mú ở vùng biển ven bờ Đà Nẵng và Quảng nam có mức tương đồng cao với các khu vực ở phái bắc như Quảng Ninh, vùng biên ven bờ Bắc Trung Bộ và Hồng Kông
có mức tương đồng thấp hơn so với vùng rạn san hô ven bờ Nam Trung Bộ, rạn san hô quần đảo Trường Sa, rạn san hộ việt Nam và vùng biển Việt Nam
thấp nhất là với Đài Loan. Các loài thường xuyên bắt gặp là cá mú kẻ mờ (Cephalopholis boenak) chiếm 43 phần trăm, loài cá song gio (Epinephelus awoara): 18 phần trăm và loài cá mú (E. stictus): 16 phần trăm. Chiều dài khai thác các loài cá mú nhìn chung đều tập trung ở nhóm loài có kích thước nhỏ, một số loài có kích thước lớn cũng bị đánh bắt khi chưa đạt tới kích thước chưa thành thục sinh dục như cá song gio (E. coioides), cá mú điểm gai (E. malabaricus), cá mú nâu (E. bruneus).