Trong bối cảnh Việt Nam đang thay đổi để đưa chuẩn đào tạo và nghiên cứu khoa học lên gần với chuẩn quốc tế, việc nghiên cứu trắc lượng đối với sản lượng và hành vi công bố khoa học quốc tế tại Việt Nam là vô cùng cần thiết. Với mẫu dữ liệu thu thập được từ 410 nhà khoa học thuộc lĩnh vực khoa học - xã hội và nhân văn (KHXH&NV) của Việt Nam đã có xuất bản trong các ấn phẩm khoa học nằm trong danh mục Scopus giai đoạn 2008-2017, các phân tích đã dưa ra một số kết quả ban đầu như sau: (i) Dù được cho là gặp phải trở ngại về tính "đặc thù" tại Việt Nam, hàng trăm công bố quốc tế xuất hiện trong ít nhất 12 lĩnh vực lớn của KHXH&NV (ii) Theo phương pháp tính điểm đóng góp SDC, một học giả có thể có số điểm SDC chỉ bằng 1/4 số lượng xuất bản tham gia
(iii) "Tuổi nghề" không nhất thiết tỷ lệ thuận với đóng góp nghiên cứu, trong khi đó khả năng dẫn dắt hoặc (và) vai trò chủ đạo của tác giả mới quyết định và góp phần giải thích 69 phần trăm tỷ lệ biến thiên của số công trình.