Nghiên cứu thực hiện tại Chi nhánh Trung tâm nghiên cứu và phát triển giống con nuôi, cây trồng Ninh Bình, Thành phố Tam Điệp, Ninh Bình từ năm 2012 đến 2016 với 125 và 117 lợn nái ông bà VCN11 và VCN12, tổng 1186 ổ đẻ nhằm xác định năng suất sinh sản qua các lứa đẻ. Kết quả nghiên cứu cho thấy: Tuổi phối giống lần đầu, tuổi đẻ lứa đầu, khoảng cách giữa hai lứa đẻ và thời gian phối giống có chửa sau cai sữa giữa hai dòng lợn nái ông bà sai khác không có ý nghĩa thống kê (p0,05). Số con sơ sinh sống/ổ và số con cai sữa/ổ của dòng VCN12 cao hơn so với dòng VCN11 (P0,05). Khối lượng sơ sinh/con và khối lượng cai sữa/con của dòng VCN11 cao hơn so với dòng VCN12(P0,05). Số con sơ sinh sống/ổ và khối lượng sơ sinh sống/ổ của hai dòng đều có xu hướng tăng từ lứa 1 đến lứa 4, đạt đỉnh cao tại lứa 4, năng suất ổn định ở mức cao từ lứa 3 đến lứa 6 và có xu hướng giảm xuống ở lứa 7. Số con cai sữa/ổ và khối lượng cai sữa/ổ thấp hơn ở lứa 1, đạt kết quả cao hơn từ lứa 2 đến lứa 6 và có xu hướng giảm xuống ở lứa 7.